Ngày 19/5, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) tổ chức hội thảo tham vấn Dự thảo Chiến lược sức khỏe đất và Kế hoạch hành động quốc gia. Đây là hoạt động nằm trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động về sức khỏe đất quốc gia” do FAO tài trợ, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa chủ trì thực hiện. Dự án góp phần triển khai một số nhiệm vụ thuộc “Đề án Nâng cao sức khỏe đất và quản lý dinh dưỡng cây trồng tới năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050”.
Chiến lược sức khỏe đất và kế hoạch hành động lồng ghép quản lý rủi ro về an ninh lương thực, an toàn thực phẩm và quản lý việc sử dụng không hợp lý vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật).
Việt Nam hiện có 11,6 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó 6,7 triệu ha dành cho cây hàng năm (gồm 3,9 triệu ha trồng lúa và 2,8 triệu ha cây hàng năm khác) và 4,9 triệu ha cho cây lâu năm. Tuy nhiên, chất lượng tài nguyên đất đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Có tới 75% diện tích là đất dốc, trong đó 50% có độ dốc lớn hơn 20 độ khiến nguy cơ xói mòn tăng cao. Trên thực tế, 60% diện tích đất bị xói mòn với mức tổn thất trên 11 tấn/ha/năm và 30% diện tích bị xói mòn nghiêm trọng (trên 20 tấn/ha/năm). Độ chua của đất cũng là vấn đề đáng báo động khi có đến 70% diện tích có pH dưới 6,0.
Lãnh đạo FAO tại Việt Nam, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật và Viện Thổ nhưỡng Nông hóa chủ trì buổi tham vấn Dự thảo Chiến lược sức khỏe đất và Kế hoạch hành động quốc gia. Ảnh: Linh Linh.
Về dinh dưỡng, hiện nay 50% diện tích đất nghèo đạm, 70% nghèo lân, 60% nghèo kali, 72% nghèo canxi và 48% nghèo magiê. Tình trạng nhiễm mặn đang gia tăng rõ rệt tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long bên cạnh ô nhiễm đất do tích lũy kim loại nặng như asen và đồng tại nhiều vùng trồng lúa và khu vực gần rác thải sinh hoạt, công nghiệp.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020), khoảng 44% diện tích đất sản xuất nông nghiệp đã bị thoái hóa. Trong đó, diện tích thoái hóa mạnh chiếm khoảng 1%, thoái hóa trung bình 14% và thoái hóa nhẹ 29%. Các dạng thoái hóa phổ biến gồm xói mòn, khô hạn, kết von, suy giảm độ phì, mặn hóa và phèn hóa.
Theo dự thảo Chiến lược sức khỏe đất và Kế hoạch hành động quốc gia, Chiến lược không chỉ lồng ghép các vấn đề về an ninh lương thực, an toàn thực phẩm và sử dụng hợp lý vật tư nông nghiệp mà còn đặt nền móng cho việc chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng carbon thấp, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, nội dung Chiến lược cũng gắn với cách tiếp cận "Một sức khỏe" (One Health), đề cao mối liên hệ “đất khỏe – cây khỏe – người và động vật khỏe – môi trường khỏe” nhằm tăng cường thu hút nguồn lực khoa học, tài chính và công nghệ.
Ông Rémi Nono Womdim trưởng đại diện FAO tại Việt Nam phát biểu tại buổi tham vấn. Ảnh: Linh Linh.
Ông Rémi Nono Womdim, Trưởng đại diện FAO tại Việt Nam nhấn mạnh, đất khỏe là nền tảng không thể thiếu của nền nông nghiệp bền vững. Trong bối cảnh Việt Nam chỉ có khoảng 11,5 triệu ha đất nông nghiệp – tương đương 0,11ha/người, đất canh tác nước ta không chỉ ít mà còn dễ tổn thương. Xói mòn, độ chua, sử dụng phân bón hóa học quá mức, đô thị hóa và biến đổi khí hậu là những nguyên nhân chính làm gia tăng thoái hóa đất, giảm năng suất và chất lượng nông sản.
Theo ông Rémi, Chiến lược quốc gia về sức khỏe đất đến năm 2030, tầm nhìn 2050 và Kế hoạch hành động được thiết kế phù hợp với bối cảnh phát triển và thể chế hiện hành của Việt Nam. Chiến lược này đồng thời hướng đến tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh cho nông sản Việt trên thị trường thế giới.
Ông Huỳnh Tấn Đạt – Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật nhấn mạnh các mục tiêu cụ thể mà Việt Nam hướng tới đến năm 2030, gồm hoàn thiện bộ cơ sở dữ liệu về chất lượng các loại đất chính theo nhóm chỉ tiêu lý – hóa – sinh, đi kèm với dữ liệu sử dụng phân bón cho cây trồng chủ lực. Xây dựng bộ chỉ tiêu và thang phân cấp đánh giá sức khỏe đất trồng trọt phù hợp với hệ sinh thái tại Việt Nam nhưng tiệm cận với tiêu chuẩn khu vực và thế giới.
Ông Huỳnh Tấn Đạt – Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phát biểu tại buổi tham vấn. Ảnh: Linh Linh.
Hoàn thiện quy trình canh tác hợp lý gắn với sử dụng phân bón hiệu quả, giảm thất thoát dinh dưỡng, cải thiện chất lượng đất và bảo vệ đa dạng sinh học trong đất. Góp phần giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp và nâng cao năng lực cho cán bộ kỹ thuật, quản lý và cộng đồng.
Về tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia đi đầu trong khu vực về năng lực và hiệu quả quản lý sức khỏe đất trồng trọt và dinh dưỡng cây trồng. Theo ông Đạt, để đạt được điều đó, rất cần sự đồng hành từ cộng đồng quốc tế, khu vực tư nhân, các nhà khoa học và các tổ chức phát triển nhằm hỗ trợ nguồn lực, tri thức và công nghệ.
Dưới góc độ sức khỏe cộng đồng, TS.BS Phạm Đức Phúc – chuyên gia trong lĩnh vực tiếp cận “một sức khỏe” (One Health) cho rằng, chiến lược quản lý sức khỏe đất cần chú trọng nhận diện sớm các yếu tố nguy cơ cao từ đất có khả năng tác động đến sức khỏe con người và động vật, bao gồm cả vật nuôi và động vật hoang dã.
Ông đặc biệt lưu ý đến vấn đề tồn dư kháng sinh và sự hiện diện của vi khuẩn kháng thuốc trong môi trường đất, vốn có thể gây phơi nhiễm cho người lao động trong nông nghiệp, từ đó làm gia tăng nguy cơ kháng kháng sinh ở người. Đồng thời, ông nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tích hợp, liên kết các thành tố sức khỏe liên quan, trong đó có hệ vi sinh vật đất nhằm hỗ trợ phân tích, cảnh báo sớm và quản lý rủi ro hiệu quả.
Linh Linh